Câu chuyện lịch sử

nguyenhaiabc

Not Alone
Tướng mạo dị thường của các ông vua Việt

Từ khi sinh ra, Lý Thái Tông sau gáy có đến 7 nốt ruồi tụ lại như chòm sao Bắc Đẩu, được xem là điềm báo xứng đáng nối ngôi thiên tử.

Lý Thái Tông tên húy Phật Mã, sinh năm Canh Tý (1000) ở chùa Duyên Ninh thuộc cố đô Hoa Lư. Ông là con trai trưởng của Vua Lý Thái Tổ và bà Lê Thị Phất Ngân, con gái Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) và Dương Vân Nga.

T__ng_m_o_d__th__ng_c_a-b870a71e2f99af73a7c57c0e8e030035


Tượng Lý Thái Tông tại đền Lý Bát Đế.


Tương truyền, ngay từ khi lọt lòng, Lý Phật Mã đã có những dấu hiệu lạ lùng. Lúc bé, chơi đùa với bọn trẻ trong cung, ông thường bắt chúng dàn hàng tả hữu trước sau để làm quân hầu hộ vệ cho mình. Ông cho một vị đạo sĩ cái áo. Đạo sĩ treo cái áo trong quán, nửa đêm thấy rồng vàng hiện ra, khiến người ta duy tâm đây là lời "sấm truyền" cho một đế vương.

Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) rất chú ý tới Phật Mã và có ý nuôi dạy ông kế vị. Năm Nhâm Tý (1012), lúc mới 13 tuổi, Lý Phật Mã đã được lập làm Đông cung Thái tử, rồi được phong làm Khai Thiện Vương, đồng thời nhiều lần được cử làm tướng cầm quân đi dẹp loạn và lập được công lớn. Vì thế, triều thần cũng như thần dân lúc bấy giờ rất tôn kính Phật Mã. Năm 1028, vua cha mất, Lý Phật Mã lên ngôi.

Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhận xét về Lý Thái Tông: “Vua là người trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc, giống như Hán Quang Vũ đánh đâu được đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông". Ông là vị vua giỏi thời nhà Lý. Hơn 30 năm chinh chiến và trị quốc, ông đã củng cố nền cai trị của nhà Lý, chống lại những nguy cơ chia cắt, bạo loạn, xâm lấn, thu phục lòng dân, khiến cho nước Đại Cồ Việt trở nên vững mạnh.

Trần Nhân Tông: Có màu da như vàng ròng

Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, sinh ngày 11/11 năm Mậu Ngọ (1258), là con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng thái hậu. Khi mới sinh toàn thân màu da như vàng ròng - sáng chói. Vua cha đặt tên là Phật Kim. Sách Thánh Đăng ngữ lục chép: "Đến khi vua ra đời, màu da như vàng ròng. Thánh Tông đặt tên là Kim Phật...”.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi: "Được tinh anh của Thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng ròng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng... Vai bên tả có một nốt ruồi đen, các nhà tướng số cho rằng: ngày sau sẽ gánh vác việc lớn".

T__ng_m_o_d__th__ng_c_a-7cfadd3c1d5b32bcbba15f0f70062f02


Ảnh thờ Vua Trần Nhân Tông.


Trần Khâm được vua cha Trần Thánh Tông nhường ngôi vào ngày 22/10 năm Mậu Dần (1278). Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngọa Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình). Các sử gia thời Hậu Lê đã viết về Trần Nhân Tông: "Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân".

Lê Thái Tổ: Miệng rộng, mũi cao và bả vai có 7 nốt ruồi

Về lý lịch xuất thân của Lê Thái Tổ (Lê Lợi), sách Đại Việt thông sử chép: "Vua sinh giờ Tí (tức từ khoảng 23h đến 1h sáng) ngày mùng 6 tháng 8 năm Ất Sửu (1385), niên hiệu Xương Phù thứ 9 nhà Trần, tại làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương. Nguyên trước, xứ Du Sơn, thôn Như Áng Hậu thuộc làng này (Chủ Sơn), có một cây quế, dưới cây quế này có con hùm xám thường xuất hiện, nhưng nó hiền lành, vẫn thường thân cận với người mà chưa từng hại ai.

Từ khi Vua ra đời thì không thấy con hùm ấy đâu nữa. Người ta cho là một sự lạ. Ngày Vua ra đời thì trong nhà có hào quang đô chiếu sáng rực và mùi thơm ngào ngạt khắp làng. Khi lớn lên thì thông minh dũng lược, độ lượng hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, sống mũi cao, xương mi mắt gồ lên, bả vai bên trái có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng như hổ, tiếng nói vang vang như tiếng chuông. Các bậc thức giả biết ngay là một người phi thường".

T__ng_m_o_d__th__ng_c_a-d320ad0915bc5a80aad253ed5dad7216


Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ở Đông Kinh, mở đầu triều Lê sơ, triều đại lâu dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.


Lê Lợi sinh ra trong một gia đình "đời đời làm quân trưởng một phương". Năm ông 21 tuổi cũng là năm nhà Minh đem 80 vạn quân sang xâm lược nước Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương triều Hồ thất bại, nước Đại Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước cảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi.

Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên quê hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách. Rồi sau một thời gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.

Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ở Đông Kinh, mở đầu triều Lê sơ, triều đại lâu dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Mặc dù ở ngôi ngắn ngủi được có 6 năm nhưng những việc làm của ông vua này có ý nghĩa đặt nền móng vững chắc cho cả một triều đại và nên độc lập phồn vinh của quốc gia Đại Việt. Việc làm đầu tiên của Lê Thái Tổ là bàn định luật lệnh. Và nhờ cố gắng đó, hai năm sau (1430), Lê Thái Tổ đă cho ban hành những điều luật đầu tiên của triều đại mình".

Quang Trung: Mắt lập lòe như ánh điện

Nguyễn Huệ (1753 - 1792), còn được biết đến là Vua Quang Trung hay Bắc Bình Vương, là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn (ở ngôi từ 1788 tới 1792). Ông là một trong những lãnh đạo chính trị tài giỏi với nhiều cải cách xây dựng đất nước, quân sự xuất sắc trong lịch sử Việt Nam với những trận đánh nội chiến và chống ngoại xâm chưa thất bại lần nào.

T__ng_m_o_d__th__ng_c_a-ab8d49caa656e84a4848ea562c59b21f


Quang Trung - Nguyễn Huệ cũng được xem là người anh hùng áo vải của dân tộc Việt Nam.


So với các hoàng đế khác trong lịch sử Việt Nam, có lẽ Quang Trung - Nguyễn Huệ được các sử thần lưu lại những miêu tả chi tiết hơn về vóc dáng, thậm chí miêu tả cả đến làn da, mái tóc và đặc biệt là đôi mắt: "Quang Trung là người cao lớn, tóc quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông. Kỳ lạ nhất là cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối, nó khiến nhiều người khi thấy đều run sợ, hãi hùng…“không một người nào dám nhìn thẳng vào mắt ông” (Hoàng Lê nhất thống chí). “Đôi mắt lập lòe như ánh điện” (Đại Nam chính biên liệt truyện), “con mắt nhỏ nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu” (Tây Sơn thuật lược)…

Sách Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung cũng trích dẫn tướng mạo của Hoàng đế Quang Trung theo mô tả của một quan viết sử dưới thời Nguyễn: “Huệ tóc quăn, mặt đầy mụn, có con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu, lúc lâm trận thì thế thắng uy nghi, anh hùng lẫm liệt, cho nên mới bình định được phương Nam, dẹp phương Bắc, tiến đến đâu thì không ai hơn được... Óc thông minh đó sẽ làm nên sự nghiệp lớn, tiếng nói sang sảng như chuông sẽ là lệnh truyền hiệu nghiệm đầy sức thuyết phục. Với đôi mắt như ánh điện, thay được đèn soi sáng cả chiếu vào lúc ban đêm, có thể xuyên thấu mọi tâm can sâu thẳm của mỗi con người, của đối phương nên đã làm người người đều kinh sợ. Cái nhãn quang đó cùng bộ óc thông minh của ông đã làm nên sự nghiệp phi thường như lịch sử đã ghi lại".

Ngoài ra, trong một phác họa chân dung vua Quang Trung in trên một tờ tiền giấy, hậu thế có thể thấy đôi mắt của vua là một đôi mắt đẹp đặc trưng kiểu người Việt Nam, nghĩa là đôi mắt to, hai mí lớn, nhãn cầu hơi lồi và ánh nhìn ngay thẳng, chính trực. Có lẽ do quá ấn tượng về nhân cách, tài trí vô song của vị vua áo vải này mà các sử gia đã phần nào “thần thánh hóa” đôi mắt của vua, nhằm cho đời sau cảm nhận được uy lực lạ lùng của đôi mắt ấy. Việc miêu tả chi tiết đôi mắt, làn da cũng như mái tóc của vua Quang Trung càng cho thấy sự gần gũi của vị vua có xuất thân dân dã này.
Nguồn : thegioivohinh.com
 

thucdt

Chào Mào Xa Xứ
Thế từ tướng người suy ra tướng chim thử, xem con nào có tương lai. Tướng Lê Thái Tổ anh suy được nè, con nào trên vai có 7 chấm bông thì con đó sẽ làm vua. :cool:
 

nguyenhaiabc

Not Alone
Bí mật của những vũ khí tự chế khiến quân Nguyên Mông thất đảm
Tranh tái hiện cảnh đoàn quân nhà Trần chiến thắng quân Nguyên Mông trở về.
Trần Quốc Tuấn, vị tổng chỉ huy quân đội nhà Trần đã từng nói: "Quân cốt tinh, không cốt đông". Trong Binh thư Yếu lược của ông đã chỉ rõ: "Giặc dùng trường trận, ta dùng đoản binh, lấy đoản binh để ngăn trường trận, lấy trường trận để chế đoản binh". Với sự thiện chiến về thủy quân, tượng binh, bộ binh... cùng với địa thế hiểm yếu của núi rừng, sông ngòi bao bọc, quân dân thời Trần đã đánh tan các đạo quân xâm lược Nguyên Mông do Thoát Hoan chỉ huy. Một câu hỏi được đặt ra: Vậy quân đội thời Trần được trang bị quần áo, vũ khí như thế nào để có thể đánh bại được quân xâm lược. Bí mật này đã hé mở khi tìm hiểu các tư liệu điền dã, thần phả, thần tích ở làng A Sào (An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình).
Độc đáo áo giáp nông dân tự chế
Theo sử sách, binh lính của Hưng Đạo Vương đã từng đóng quân tại vung Hương A Cảo - A Côi (nay gồm các xã An Đồng, An Khê, An Thái, An Vũ thuộc huyện Quỳnh Phụ) và dọc theo bờ sông Hóa ra tới gần cửa biển Đại Bàng (huyện Thái Thụy, Thái Bình). Binh lính có nhiều nông nô, nô tỳ và nông dân tham gia. Họ là những người dân nghèo nhưng rất đũng cảm, kiên cường, mưu trí, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc. Vì nghèo nên họ không thể có áo giáp sắt hoặc áo da như những người lính chính quy được triều đình trang bị. "Cái khó ló cái khôn", người nông dân bằng sự sáng tạo của mình đã tạo cho mình những bộ trang phục, giầy dép, vũ khí với những nguyên liệu sẵn có, rẻ tiền, dễ chế tác. Trang phục của họ có độ bền cao mà cung tên, giáo, mác sắc bén của quân Nguyên Mông cũng khó mà xuyên thủng.

Cụ Trần Duy Thụy (79 tuổi, người làng A Sào) cùng các cụ già làng cho biết, trước đây trong nhà thờ của gia đình vẫn có tấm áo giáp (tương truyền là của cụ tổ nhiều đời để lại, được cất trong một cái hòm gỗ mít và được đặt trang trọng trên bàn thờ tổ). Mỗi khi có giỗ tổ, cụ Thụy cùng anh em trong dòng họ vẫn được ông, cha kể cho nghe về cách làm quần áo giáp và chiến công đánh giặc Nguyên Mông của đội dân binh A Sào ngày xưa. Theo cụ Thụy, vải áo giáp có màu nâu, ở bên trong áo có rất nhiều lớp giấy bản, mỗi lớp giấy bản đều được bọc bởi một lớp vải màn, hoặc vải tơ tằm (loại vải đũi tơ tằm xấu). Sau đó quét sơn ta và một loại nhựa cây (cây cậy) lên vải màn hoặc đũi tơ để các lớp vải và giấy dính chặt vào nhau. Tiếp đó, người ta dùng vải nâu (đũi tơ tằm nhuộm nâu bằng nước bột cây cậy), khâu các lớp giấy bản đã được bọc vải vào áo. Đặc điểm ưu việt của loại áo này là rất dầy, nhẹ, độ xốp cao nhưng rất bền, có thể giúp cho người chiến binh khi bị trúng tên hoặc trúng gươm, giáo của kẻ địch thì vết thương cũng không bị vào sâu trong cơ thể.

Ở giữa ngực áo giáp vì không có miếng đồng (tròn) để làm vật hộ tâm như áo giáp của nước ngoài nên người xưa đã dùng mây đan dầy nhiều lớp, rồi ghim lại với nhau (thành hình tròn) và dính vào trước ngực để làm vật hộ tâm.

Cụ Thụy được ông nội và cha cho biết: " Chiếc áo thờ này là của cụ tổ lâu đời để lại, cùng với phương pháp chế tác được giấu trong hòm thờ. Vì thế đã từ bao đời nay trong ban thờ của gia đình cụ vẫn có áo giáp của tổ tiên để trên ban thờ. Đơn giản là nếu áo để qua ba bốn đời là mục, thì những người ở thế hệ tiếp theo phải căn cứ vào bí quyết chế tác áo giáp của người xưa để lại, mà phục chế đúng như quần áo cũ". Đáng tiếc là năm 1953, giặc Pháp đóng đồn ở đền A Sào, chúng càn quét vào làng, đốt từ đường của gia đình cụ, nên áo giáp và bí quyết làm áo cũng bị cháy. Cụ Thụy chỉ còn nhớ được đôi chút về cách chế tác quần áo giáp và giầy vải.
Bí mật trong đôi giày vải đạp chông gai
Theo các cụ trong làng, đôi giầy dùng cho những người lính ngày xưa cũng được thiết kế rất gọn nhẹ, có tác dụng tránh cho bàn chân giảm bớt thương tích nếu bị giáo, kiếm chém hoặc bị sa vào chông, gai. Cụ Thụy cho biết: Phần bên trong và bên ngoài của đôi giầy là lớp vải đũi dầy (đũi tơ tằm), đã được nhuộm nâu kỹ hoặc nhuộm bột cây cậy (giã nhỏ cây cậy hòa vào nước đun sôi, để nhuộm vải). Phần cốt giữa của giầy là giấy bản nhiều lớp, được quét bằng chất lấy ra từ cây cậy, sau đó dùng sơn ta phết lên cho kín mục đích cho nước khó thấm vào trong, cuối cùng được chằm (khâu) bằng sợi chỉ gai. Đế giầy được làm rất dầy (khoảng 2 - 3cm). Chiều cao từ đế lên đến miệng giầy khoảng 30cm.

Ngoài quần, áo, giầy dép, người xưa còn tự chế tạo nón chóp (mũ đội) bằng sợi mây. Những khe hở của các sợi mây được lèn chặt bởi lớp bột giấy bản, đã được quệt bột cậy (người xưa giã nhỏ cây cậy ra, sau đó cho ít nước vào bột cậy đun sôi, rồi cho bột giấy bản vào đảo đều). Người xưa dùng bột hỗn hợp đó quét lên các khe hở của mũ mây, sau đó dùng sơn ta quét lên mũ. Với trí thông minh và tinh thần yêu nước nồng nàn, những người dân Hương A Côi, A Cảo xưa đã tự chế tạo cho mình những bộ áo giáp bền chắc, những đôi giầy nhẹ, dầy, bền bằng những nguyên liệu đơn sơ. Vậy mà họ đã theo Hưng Đạo Đại Vương vượt sông Hóa đi đánh trận Bạch Đằng lịch sử và các chiến trận khác, góp phần đuổi bọn xâm lược Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi Đại Việt.
Tổ 3 người khiến kỵ binh giặc thất kinh
Người già ở A Sào cho biết, giặc Nguyên lúc đó rất mạnh về kỵ binh, cung nỏ cứng, gươm, dao sắc bén, giáo rất dài. Để chống lại đội quân kỵ (quân cưỡi ngựa) thiện chiến giáo dài, gươm sắc của giặc, những người lính của Hưng Đạo Vương khi xưa thường được biên chế theo các đô (mỗi đội quân có 30 đô. Mỗi đô có từ 30 - 50 người). Khi ra trận, ở mỗi đô thường được ghép thành tổ ba người. Trong tổ ba người đó thì có một người cầm khiên mây (khiên được đan bằng mây, có trát bột giấy hòa lẫn với bột cây cậy, sau đó được vít vào các lỗ hở của khiên) có nhiệm vụ đỡ giáo, gươm, tên của giặc. Người lính thứ hai trong tổ ba người sẽ dùng câu liêm móc, giật chân ngựa hoặc quân giặc cưỡi trên lưng ngựa, làm cho ngựa ngã hoặc nếu không thì ngựa cũng lồng lên (vì bị lưỡi câu liêm sắc, giật mạnh làm chân ngựa bị thương), hất tên giặc đang cưỡi trên mình ngựa xuống đất. Người lính thứ ba có trách nhiệm dùng giáo hoặc đao, xông vào đâm, chém tên giặc đã ngã ngựa.
Với cách đánh đơn giản nhưng được luyện tập thành thục, những người lính đời Trần đã làm khiếp đảm quân giặc và hạn chế rất nhiều ưu thế của kỵ binh kẻ thù.
Quân kỵ binh Nguyên Mông dù thiện chiến bậc nhất thế giới nhưng 3 lần bại chiến trước các binh sĩ nhà Trần.
Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của quân, dân thời Trần, đã đi vào sử sách. Không phải chỉ có ở Việt Nam, mà nhiều nhà viết sử trên thế giới cũng hết lời ca ngợi. Bộ sử biên niên viết bằng chữ Ba Tư của nhà sử học nổi tiếng thế kỷ thứ XIII Ra Sít út Đin (1247-1318) đã từng viết về nước ta (chữ Ba Tư gọi là Kiafca, Giao Chỉ quốc): "Nước đó có những vùng khó đi lại và nhiều rừng cây, giáp với Karajan (Vân Nam), một phần giáp Hinđôstan và biển. ở nước đó có quốc vương riêng, không thần phục Hãn (Mông Cổ). Một lần TuGan (Thoát Hoan) đem quân vào nước đó chiếm lấy các thành thị ven biển và thống trị ở đấy trong một tuần lễ. Nhưng bỗng nhiên từ biển, từ rừng, từ núi, xuất hiện những đội quân đánh tan đạo quân của TuGan đang lo cướp bóc. TuGan trốn thoát và trở lại về đóng ở Lukinfu" (cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ thứ XIII - Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm).
Theo tư liệu lịch sử, quân đội Mông Cổ lúc đó là một đội quân rất thiện chiến "trăm quân kỵ quay vòng, có thể bọc được vạn người, nghìn quân kỵ tản ra, có thể dài đến trăm dặm... nên kỵ đội là ưu thế của họ. Hoặc xa, hoặc gần, hoặc nhiều, hoặc ít, hoặc tụ, hoặc tán, hoặc hiện, hoặc ẩn, đến như rơi trên trời xuống, đi như chớp giật". Nhưng đội quân hùng mạnh, thiện chiến đó ba lần tấn công Đại Việt đều bị thất bại
ĐẶNG HÙNG (Hội sử học Việt Nam)
 

nguyenhaiabc

Not Alone
Giai thoại Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
(1491-1585)
Nguyễn Qúy Ðại


Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm tân hợi 1491, thuộc đời vua Lê Thánh Tông Hồng Ðức thứ 22 tại thôn Trung An, làng Cổ An, huyện Vĩnh Bảo Hải Dương. Thân phụ cụ Văn Ðình, thân mẫu Nhữ Thị Thục, người đất Tiên Minh, làng An Tử hạ. Ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm là Nhữ Văn Lan, đã làm rạng rỡ dòng họ và quê hương với bảng vàng tiến sĩ, khoa thi năm Quí mùi, niên hiệu Quang Thuận, đời Lê Thánh Tông, được nhà Vua tin dùng, phong chức Thượng thư bộ Hộ.
Theo tài liệu để lại bà Nhữ Thị Thục là bậc nữ lưu tài hoa vào bậc nhất chốn kinh kỳ thời bấy giờ. con gái Hộ bộ thượng thư Nhữ văn Lân, được phong là Từ thục phu nhân. Bà giỏi văn chương và tài học về Lý số. Biết trước những gì có thể xảy ra và mộng lớn con cái nên danh phận không thể chờ thời. Như Nguyễn Du đã viết sau nầy “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” .Trạng Trình có người em cũng tài giỏi về lý số, người đời gọi là Trạng Bùng Phùng Khắc Khoang cùng mẹ khác cha. Nguyễn Bỉnh Khiêm huý là Văn Đạt, tự Hanh Phủ, người làng Trình Tuyền (Trung An), huyện Lĩnh Lại, tỉnh Hải Dương, nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm học giỏi tính toán biết nhà Lê Trung Hưng, nên chờ đúng số mệnh năm 44 tuổi dự thi đỗ Giải Nguyên. Sau đó đỗ Giải Nguyên đời nhà Mạc (1527-1592), làm việc bên cạnh Tả thị Lang, Ðông Các Ðại Học Sĩ, làm quan được 8 năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần vua nghe không. Ông cáo quan năm 1542 về vườn, lập Am gọi Bạch Vân Am và hiệu Bạch Vân Cư Sĩ mở trường dạy học cạnh sông Hàn giang còn có tên Tuyết giang nên học trò gọi ông “Tuyết giang Phu tử “ thơ mang triết lý của Thái Ất
Ngư ông bất ngộ Ðào Nguyên khách
Khởi thức hưng vong thế cổ kim
hay
Nhàn Trung hoa thảo túc Cung xuân
Tà dương độc lập đô vô sự
Lúc trẻ ông học với Lương Ðắc Bằng được truyền cho quyển “Thái ất thần kinh” từ đó ông tinh thông về Lý học,Tướng số ..Dù Nguyễn Bỉnh Khiên không còn làm quan nhưng vua Mạc Phúc Hải phong cho ông tước Trình Nguyên Hầu vào năm Giáp thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn nghành lý học, giống như (Trình Y Xuyên,Trình Minh Ðạo bên Trung Hoa). Sau đó được thăng chức Thương thư bộ Lại tước hiệu Trình quốc Công. Từ đó người đời gọi ông là Trạng Trình.
Nhờ học phương pháp tính theo Thái ất, tiên đoán được biến cố trước và sau 500 năm. Người Trung Hoa khen Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “ An Nam lý học hữu Trình Tuyền”
Ông về ở ẩn nghiên cứu về lý số với thiên tài “thần thông” có khả năng siêu quần, quán chúng về thấu thị, về thần giao cách cảm..

Tục truyền rằng Năm Bính ngọ (1546) Mạc Phúc Hải mất truyền ngôi lại cho con Mạc Phúc Nguyên mãi đến năm mậu thân (1548) vua Trang Tông mất, Trịnh Kiểm lập Thái tử tên Duy Huyên lên ngôi tức Trung Tông được 8 năm thì mất không có con nối nghiệp. Trinh Kiểm muốn làm vua nhưng còn sợ dư luận, nên sai người đến Hải Dương hỏi ý khiến Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. ông không nói gì chỉ bảo người giúp việc ngụ ý :
“năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ, gữi chùa thờ Phật thì ăn oản.. “ Sau đó Trịnh Kiểm tìm con cháu họ Lê, lên làm vua.
Khi ở ẩn, Vua Mạc cũng như các chúa Trịnh, Nguyễn có việc hệ trọng vẫn cho người đến hỏi ý ông. Ông thường kín đáo khuyên Vua cố gắng tránh chiến tranh để nhân dân khỏi chết chóc. Trong năm Quang Thiêu (Lê Chiêu Tôn) có việc biến loạn, Nguyễn bỉnh Khiêm ở ẩn không muốn tiếng tăm với đời lúc bấy giờ Trịnh Tuy, Mạc Ðăng Dung cũng cố ý muốn tranh quyền, đánh nhau lmấy năm dài. Ông tính số Thái Ất, biết có nhà Lê lại khôi phục được làm bài thơ
Non sông nào phải buổi bình thời
Thú đánh nhau chi khéo nực cười
Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổỉ
Núi xương sông tuyết, thảm đầy vơi
Ng ựa phi chắc có hồi quay cổ (1)
Thú dữ nên phòng lúc cắn người (2)
Ngán ngẫm việc đời chi nói nữa
Bên đầm say hát, nhởn nhơ chơi


Hoành sơn nhất đái
Sau khi nhà Lê bị Mạc Đăng Dung (1483-1541) chiếm ngôi, con của vị tướng triều Lê là Nguyễn Hoàng Dụ trốn sang Lào, được vua Lào cho nương náu ở xứ Cẩm Châu, trấn Nam Phủ, tỉnh Thanh Hoá. Năm Quý Tỵ (1532) Nguyễn Kim lập con út vua Chiêu Tông lên làm vua, gọi là Trang Tông.
Để mưu đồ đại sự, Nguyễn Kim(1467-1545) thu nạp kiện tướng ở tỉnh Thanh Hoá là Trịnh Kiểm, sau là rể của Nguyễn Kim. Năm Canh Tý (1540),
Nguyễn Kim đem quân đánh chiếm Nghệ An và thu phục luôn cả Thanh Hoá. Nhưng bỗng dưng Nguyễn Kim chết vì ngộ độc (1545), mọi bình quyền về tay Trịnh Kiểm. Việt Nam lúc bấy giờ bị chia đôi: từ Sơn Nam trở ra thuộc nhà Mạc, gọi là Bắc Triều. Từ Thanh Hoá trở vào là khu vực của nhà Lê hay gọi là Nam Triều.
Nguyễn Kim mất, để lại hai người con trai là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng(1525-1613) cả hai tuy còn ít tuổi nhưng đã bộc lộ tài năng xuất sắc hơn người. Trịnh Kiểm không khỏi lo sợ cả hai sau này có thể tranh giành địa vị với mình, nên đã ngấm ngầm ngăn trở, và vì thế Nguyễn Uông chỉ mắc một lỗi nhỏ, Trịnh Kiểm cũng buộc Nguyễn Uông phải chịu phép gia hình. Nguyễn Hoàng thấy anh bị hại, sợ đến lượt mình, liền cử người kín đáo lên hỏi Trạng Trình. Trạng không trả lời cụ thể, chỉ đứng ngắm đàn kiến bò trên hòn non bộ trước sân nhà và thốt lên một câu:
“Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”

Nghĩa là từ núi đèo ngang ở Quảng Bình kia có thể yên thân được muôn đời . Từ câu nói đó, Nguyễn Hoàng nghiệm ra rằng trạng Trình đã bày cho kế đi vào phương Nam lập nghiệp.Từ năm 1558 Nguyễn Hoàng vội vàng đến nói riêng với chị là bà Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào trấn phiá Nam, năm mậu ngọ (1558) đời vua Anh Tông Trịnh Kiểm tâu vua cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá, phía Nam dãy Hoành Sơn. Nhờ thế mà lập nên cơ nghiệp của họ Nguyễn ở Đàng Trong, truyền nối lâu dài.
Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan, có lòng nhân đức, thu dụng hào kiệt giúp dân cho nên được lòng dân kính phục. Trấn giữ đất Thuận Hóa, mở đầu cho triều đình nhà Nguyễn từ từ khai phá cho ðến vùng ðồng bằng sông Cửu Long ngày nay.
Ngoài ra rất nhiều lời sấm được lưu truyền qua dân gian nhiều lời bàn diễn giải khác nhau câu : ” Cẩu vĩ trý ðầu, xuất thánh nhân ” ứng nghiệm vào việc vua Gia Long lên ngôi từ (1802-1819) thống nhất sõn hà vào nãm Nhâm tuất ngày 02-05-1802. trải qua 13 triều ðại .Hoàng ðế cuối cùng Bảo Ðại trị vì từ 1929 và thoái vị năm 1945 .
Tương truyền Trạng Trình nói trước nhà Mạc suy vong, tuy nhiên con cháu họ Mạc về đất Cao bằng tuy nhỏ nhưng được 3 đời là Mạc Kính Cung, Mạc Kinh Khoan và Mạc Kinh Vũ . Dòng dõi họ Mạc bị bắt, bị giết nhiều người đổi họ lưu lạc khắp nơi để mưu cầu sự sống !!!
Trạng Trình có 3 người vợ và 12 người con (7 trai 5 gái) các con trai đều có chức tước sau nầy. Ông mất ngày 28 tháng 11 năm đinh dậu, niên hiệu Diên Thành thứ 8 nhà Mạc (1585) hưởng thọ 94 tuổi. Trước khi chết, Trạng có ghi vào gia phả và dặn con cháu rằng:
Bình sinh ta có tấm bia đá sẵn và đã sơn kia. Khi ta mất rồi,, hễ hạ quan tài xuống phải để tấm bia đá ấy lên nắp rồi lấp đất. Chờ khi nào có khách tới viếng mộ và nói rằng: "Thánh nhân mắt mù" thì phải lập tức mời người ấy vào nhà, yêu cầu họ đổi hướng lại ngôi mộ cho ta. Nếu trái lời ta, dòng dõi về sau sẽ suy đồi lụn bại đấy. Con cháu nghe lời, làm y như đã dặn. Nhưng chờ mãi đến năm mươi năm sau, mới có người khách đến nhìn mộ cụ một lúc rồi nói:
Cái huyệt ở đằng chân sờ sờ thế kia mà không biết, lại tự đem để mả thế này. Vậy mà thánh nhân gì chớ, hoạ chăng là thánh nhân mắt mù.Người trong họ nghe được, chạy về báo với trưởng tộc. Ông này vội vàng ra đón người khách Tầu kia về nhà, xin để xoay ngôi mộ kia lại. Ra đó là một nhà phong thuỷ (Feng Shui) trứ danh ở phương Bắc. Ông ta sang là để đi tìm xem di tích của Trạng, bấy lâu ông ta đã nghe tiếng đồn.
Khi nghe vị trưởng tộc nói, ông ta sẵn lòng làm ngay, và tự đắc cho rằng mình giỏi hơn Trạng Trình. Ông ta bảo: Không cần phải đem đi đâu xa cả, chỉ đào lên rồi xoay lại, nhích đi một chút là được. Ông trưởng tộc bèn tụ họp con cháu lại, đưa thầy địa lý Tầu ra đổi lại ngôi mộ. Lúc đào đến tấm bia đá, ông ta làm lạ bảo đem rửa sạch xem những gì trên đó. Khi tấm bia được rửa sạch, mới thấy mấy câu thơ hiện ra: tạm dịch nghĩa:
"Ngày nay mạch lộn xuống chân
Năm mươi năm trước mạch dâng đằng đầu
Biết gì những kẻ sinh sau?
Thánh nhân mắt có mù đâu bao giờ?"
Đọc tới đâu vị khách Tầu đổ mồ hôi hột đến đó, ra Trạng Trình mà ông ta nghe đồn là giỏi thật. So với Trạng, có lẽ ông còn thua xa.
Năm 1930 Việt Nam Quốc Dân Ðảng lãnh tụ Nguyễn Thái Học (1901-1930) lãnh đạo cuộc tổng khởi nghiã ngày 10.2.1930 đánh Tây ở các tỉnh : Yên Bái, Hưng Hoá, Lâm Thao, Hải Dương, Kiến An. Thất bại bị Pháp đìên cuồng ném bom tàn phá làng Bảo an để trả thù. Có lời đồn Trạng Trình đã tiên đoán :
Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc rung Nam rung tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am cây
Lâm giang nổi gió mù thao cát
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy
Một ngựa một yên ai sùng bái
Nhắn tin nhà vĩnh bảo cho hay „

---------------------------------------
Thoát nạn sập nhà

Trước lúc mất, Trạng có giao cho con cháu một ống tre sơn son thếp vàng, bịt kín hai đầu, và dặn đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh Thống đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu được tình thế gia đình. Khi Trạng mất, hằng trăm năm sau,
con cháu Trạng lâm vào cảnh đói nghèo, sa sút, nhưng tuyệt đối không được mở ống ra xem trước thời hạn. Trạng còn dặn kỹ trừ quan Tổng đốc ra, không ai được mở ống, vì thế ống vẫn giữ nguyên vẹn. Trải qua bảy đời, cái ống tre ấy mới được rước lên dinh quan Tổng đốc, đúng ngày giờ đã ghi trong gia phả. Đang nằm nghỉ, nghe tin con cháu cụ Trạng mang thư đến gặp, quan Tổng đốc rất ngạc nhiên, không biết vì cớ gì, nên truyền cho vào, đồng thời quan ngồi dậy để đi ra cửa.
Quan Tổng đốc vừa bước khỏi giường nằm được mấy bước thì bỗng rầm một cái, chiếc sà nhà không biết bị mọt ăn hỏng từ bao giờ, rơi ngay xuống chỗ giường vừa nằm. Thật là một phen hú vía! Nếu ông không kịp ngồi dậy nhận thư Trạng, thì mạng ông đã khó mà sinh tồn. Quan Tổng đốc mở ống tre ra xem, thấy bên trong có một cuộn giấy, đề hai câu thơ:
"Ngã giải nhĩ thượng lương chi ách
Nhĩ cứu ngã tử tôn chi bần"
NghÜa lµ
"Cứu ngươi thoát nạn đổ nhà
Ngươi nên cứu cháu con ta khỏi nghèo"
Chưa hết kinh hoàng vì chuyện chiếc sà nhà giờ cả đám thêm hãi vì lá thư. Quan Tổng đốc biết rằng trạng Trình đã cứu ông thoát chết, nên ông ta ân cần mời cháu trạng Trình về tư thất đãi hậu hỹ, sau đó đưa ra rất nhiều tiền để giúp con cháu cụ Trạng.
------------------------------------------------
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) phá đền
Năm Minh Mạng (1791-1840) năm thứ 14, Nguyễn Công Trứ được vua điều đi khẩn hoang ở vùng Hải Dương., Nguyễn Công Trứ thấy địa thế cần phải đào con sông, đào sông thì phải phá đền thờ Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông ra lệnh cho dân phu phá đền để khai phá công trường. Khi sai người đào mang bát hương ra, Nguyễn Công Trứ chợt thấy dưới bát hương có một tấm bia đá nhỏ phủ vải điều. Nguyễn Công Trứ lau sạch đọc được các câu đã ghi :
"Minh Mạng Thập tứ,
Thằng Trứ phá đền
Phá đền phải làm đền,
Nào ai đụng đến doanh điền nhà bay".
Nguyễn Công Trứ lập tức thảo sớ về kinh, xin bãi bỏ lệnh phá đền. Ông còn cho người sửa sang lại đền Trạng khang trang hơn. Từ đó, ông không còn nghĩ đến việc phá đền để đào sông nữa.
=============================
Cha con thằng Khả
Tục truyền trong làng có cha con ông Khả đi bắt dế (chuột) kiếm sống. Khi đến bên mộ Trạng, hai cha con vướng víu thế nào lại làm đổ tấm bia trên mộ. Dân làng rất sùng kính trạng Trình, nên khi thấy bia mộ bị đổ, họ nổi giận bắt cả hai cha con, kêu nộp phạt ba quan tiền mới tha, vì khi tấm bia đổ xuống thấy có hàng chữ ở sau:
"Cha con thằng Khả
Đánh ngã bia tao
Làng xóm xôn xao
Bắt đền tam quán".

Cha con ông Khả chịu nộp phạt, nhưng dân làng phải tha cha con về nhà chạy tiền. chỉ tìm được có một quan tám, dân làng không chịu, cha con ông Khả ngẫm nghĩ mới tìm được cách, cha con bèn nói với dân làng: Cha con tôi bị Trạng Trình bắt phạt có quan tám, "Tam quán" nói lái lại thành quan tám . Ðúng như cha con ông Khả đã tìm đủ số tiền
Thơ văn của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Kiêm còn lại hơn 100 bài trong bộ Bạch Vân Thi Tập, được dịch ra chữ quốc ngữ thơ mang nặng tình người, khuyên người đời biết điều nhân nghĩa, ngoài ra còn một số giai thoại truyền tụng trong nhân gian…. và những lời sấn ký có giá trị.
1/ ứng nghiệm về sau nhà Lê khôi phục
2/ ứng nghiệm nhà Trịnh giữ nhà Lê
Tài liệu tham khảo
Việt Nam Sử lược : Trần Trọng Kim
Tự Ðiển nhân vật lịch sử : Nguyễn Quyết Thắng
Những câu chuyện lịch sử tập 3 : Trần Gia Phụng
Thái Ất thần Kinh nhà xuất bàn văn Hoá

Năm 1991, kỷ niệm 500 năm, năm sinh của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà lý học nổi tiếng của Việt Nam, người mà sau này Phan Huy Chú trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương loại chí đã nhận xét là: "Một bậc kỳ tài, hiển danh muôn thuở". Đây là một Trạng Nguyên có nhiều giai thoại rất phong phú của nước ta và được bao phủ một lớp màn thật là bí ẩn. Dưới dây xin lược kể một vài giai thoại ấy.
Cậu bé thần đồng họ Nguyễn này khi chưa đầy tuổi, một hôm đã chỉ vào mặt trời đang mọc mà nói "Ô! Mặt trời mọc đằng Đông!".
Tại quê nội và ngoại của Trạng, khách đi thăm còn được nghe một giai thoại về những lời tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà các vị cao niên coi là rất đúng như câu:
Bao giờ Tiên Lãng chia đôi,
Sông Hàn nối lại thì tôi lại về.
Quả là Tiên Lãng có con sông đào cắt đôi huyện mới được khơi lại, và năm 1985 cũng là năm kỷ niệm 400 năm ngày mất của Nguyễn Bỉnh Khiêm, cầu phao được bắc qua sông Hàn để các đại biểu toàn quốc về thăm quê hương Trạng. Khi đó, đền Nguyễn Bỉnh Khiêm được trùng tu, một hội nghị khoa học lớn về Nguyễn Bỉnh Khiêm được tổ chức. Tên tuổi Nguyễn Bỉnh Khiêm được đánh giá lại (Tôi lại về!).
Nguồn: thegioivohinh.com
 

nguyenhaiabc

Not Alone
Những lời khuyên làm nên sự nghiệp

Năm 1568, khi Nguyễn Hoàng thấy anh ruột là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm (anh rể) giết, bèn sai người đến xin ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, lúc này đã 77 tuổi, đang sống ẩn dật ở Am Bạch Vân. Không trả lời trực tiếp, ông dẫn sứ giả ra hòn non bộ, chỉ vào đàn kiến đang bò và nói:
"Hoành sơn nhất đái, khả dĩ dung thân"
(Một dải Hoành Sơn có thể dung thân được)

Hiểu được ý ấy, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái xin với anh rể Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Ngang trở vào, từ đó lập ra nhà Nguyễn ở phương nam. Về sau sử nhà Nguyễn sửa thành "vạn đại dung thân", hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi.
Ở Thăng Long, Trịnh Kiểm cũng muốn bỏ Vua Lê để tự xưng vương. Khi cho người đến hỏi ý kiến của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông không trả lời mà dẫn sứ giả ra chùa, thắp hương mà nói: "Mấy năm nay mất mùa, nên tìm thóc giống cũ mà gieo". Rồi lại bảo chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản". Hiểu ý, Trịnh Kiểm không dám phế bỏ nhà Lê mà phò Vua Lê để lập nghiệp Chúa.
Phùng Khắc Khoan đến gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm, với ý muốn nhờ thầy cho một lời khuyên: Có nên bỏ nhà Mạc để vào Thanh Hóa với triều đình Lê - Trịnh? Cả buổi chiều trò chuyện, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ hỏi tình hình, nói chuyện văn chương chứ không trả lời. Đêm ấy Phùng Khắc Khoan ngủ lại tại nhà thầy. Sang canh tư, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến phòng ngủ của học trò, đứng ngoài gõ cửa và nói vọng vào:
"Gà đã gáy rồi, trời đã sáng, sao không dậy, ngủ mãi ử"
Phùng Khắc Khoan nghe xong, suy nghĩ, và đoán rằng thầy gián tiếp bảo thời cơ đã đến, có thể vào giúp nhà Lê. Ông vội vàng thu xếp hành lý, đợi đến lúc mặt trời mọc thì vào giã từ thầy. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn không nói gì, chỉ cuốn một chiếc chiếu ngắn ném theo. Phùng Khắc Khoan nhặt lấy chiếu, vừa đi vừa nghĩ:
"Phải chăng đây là ý dặn mình cần hành động gấp và dứt điểm như cuốn chiếủ"
Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm gần mất, nhà Mạc cho người đến hỏi ông về kế lâu dài. Ông đáp: "Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế" (Đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dựa vào đó có thể kéo dài được vài đời). Sau quả đúng như vậy.
 

hieuhp

New member
viết thì giỏi đấy nhưng ko biết chú hải có học giỏi môn này không nhỉ
:confused:
 

nguyenhaiabc

Not Alone
Những lời sấm cho nhiều đời sau

Dân gian lưu truyền nhiều bản Sấm ký được cho là của ông. Hiện nay ở kho sách Viện nghiên cứu Hán - Nôm còn giữ được bốn bản. Tuy nhiên các bản này đều không có tên người chép, chép từ bao giờ và chép ở đâu? Do vậy, chúng ta cần phải làm rõ vấn đề đâu là khả năng dự báo xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm do kiến thức và kinh nghiệm đã đem lại, đâu là những điều mà người đời đã gán ghép cho ông? Mặc dù là "tồn nghi" nhưng chúng tôi cũng xin trích ra để bạn đọc cùng khảo cứu.
Truyện kể lại rằng, trước khi qua đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại một phong thư, đặt trong một ống quyển gắn kín, dặn con cháu sau này nếu làm ăn sa sút, mang thư ấy đến gặp quan sở tại thì sẽ được cứu giúp. Đến đời thứ bảy, người cháu thứ bảy là Thời Đương nghèo khốn quá, nhớ lời truyền lại, đem phong thư đến gặp quan sở tại. Quan lúc này đang nằm võng đọc sách, nghe gia nhân báo có thư của cụ Trạng Trình thì lấy làm lạ, lật đật chạy ra đón thư. Vừa ra khỏi nhà thì cái xà rơi xuống đúng chỗ võng đang nằm. Quan sợ hãi vội mở thư ra xem thì chỉ có mấy chữ:
"Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách
Nhĩ cứu ngã thất thế chi tôn
(Ta cứu ngươi thoát khỏi ách xà rơi
Ngươi nên cứu cháu bảy đời của ta)

Quan vừa kinh ngạc, vừa cảm phục, bèn giúp đỡ cháu bảy đời của Trạng hết sức tử tế.
Đến đời Vua Minh Mệnh (1820 - 1840) trong dân gian lưu truyền một câu sấm: "Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại vi Vương" (đời thứ hai Gia Long, người ở Vĩnh Lại làm vua). Vua Minh Mệnh vốn tính đa nghi. Biết được mấy câu sấm ấy, nhà vua vừa có ý đề phòng, vừa căm giận Trạng Trình. Tổng đốc Hải Dương lúc bấy giờ là Nguyễn Công Trứ được lệnh đến phá đền thờ Trạng Trình.
Nguyễn Công Trứ cho lính đến, cứ y lệnh triều đình cho đập tường, dỡ nóc. Nhưng khi tháo cây thượng lương ra thì một cái hộp nhỏ đã để sẵn trong tấm gỗ, rơi xuống. Quân lính nhặt đưa trình chủ tướng, Nguyễn Công Trứ mở xem, trong đó có một mảnh giấy đề chữ:
"Minh Mệnh thập tứ
Thằng Trứ phá đền
Phá đền thì lại làm đền
Nào ai cướp nước tranh quyền gì ai".

Nguyễn Công Trứ vội ra lệnh dừng ngay việc phá đền, khẩn cấp tâu về triều đình, xin làm lại đền thờ Trạng Trình.
Ở một tập sấm mở đầu có các câu:
"Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà vững đạt mấy ai rõ ràng
Bãi ngọc đất nổi, âu vàng trời cho
Học cách vật mới dò tới chốn..."

Có người cho rằng những lời thơ ấy đã khẳng định đất nước có nhiều người tài giỏi, cùng với nhân dân giữ vững đất nước qua biết bao nguy biến. Đất nước cũng có nhiều tài nguyên phong phú cần được khai thác. Đảo Sơn phải chăng là Vũng Tàu - Côn Đảo? Nơi có tiềm năng về dầu khí và có vị trí kinh tế chiến lược? Những lời sấm ấy cũng khẳng định phải có khoa học - kỹ thuật (học cách vật) mới có thể khai thác tốt và sử dụng tốt những tài nguyên đó, những âu vàng trời cho.
Tập sấm còn đề cập tới một bậc Thánh giúp đời:
"Một đời có một tôi ngoan,
Giúp chung nhà nước dân an thái bình
Ấy điềm sinh Thánh rành rành chẳng nghi"
Trong tập sấm cũng ghi một lời rất đặc biệt:
"Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ
Hưng tộ diên trường ức vạn xuân"
(Đất nước Hồng Lam này sau ta 500 năm
sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân
)
Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm 1585, thọ 94 tuổi. Ba trăm năm sau, trong bộ sách lớn "Lịch triều hiến chương loại chí", nhà văn hóa Phan Huy Chú đã coi Nguyễn Bỉnh Khiêm là "Một bậc kỳ tài, hiển danh muôn thuở".
 

nguyenhaiabc

Not Alone
viết thì giỏi đấy nhưng ko biết chú hải có học giỏi môn này không nhỉ
:confused:
Cái nảy em sưu tầm (thegioivohinh.com) thôi anh chứ em không phải là tác giả
PS cảm ơn anh đả quan tâm Lịch Sử Việt Nam
Thân Ái nguyenhaiabc
 
Top